Hóa thạch Mang lỗ
Tên gọi Mang lỗ từ được Grant (1836) sử dụng đầu tiên để mô tả những
động vật thuộc nhóm Bọt biển. Động vật Mang lỗ sống chủ yếu trong biển,
thuộc loại bám đáy. Trong cơ thể động vật Mang lỗ không có cấu trúc nào
tương ứng với các cơ quan của động vật cấp cao hơn. Thay vào đó, chúng
có nhiều kiểu tế bào đảm trách các chức năng khác nhau để phát triển và
duy trì sự sống: Ví dụ, ở Bọt biển có các loại tế bào như tế bào vách,
tế bào cổ lọ,
tế bào mang lỗ, tế bào gai xương v.v.. Động vật Mang lỗ có khả năng sinh
sản vô tính và hữu tính. Chúng phân bố rộng rãi trên thế giới, từ vùng
địa cực cho tới các vùng xích đạo, chủ yếu trong môi trường biển nông ở
các vùng ven bờ và thềm lục địa trên dưới 100m; tuy nhiên cũng có những
loài thuộc Lớp Bọt biển sừng tìm thấy ở độ sâu 8.840m. Các đại biểu cổ
nhất được phát hiện trong đá Tiền Cambri thượng. Đến nay đã phát hiện
khoảng trên 12.000 loài, trong số đó có khoảng 150 loài sống trong nước
ngọt.
Nhận xét
Đăng nhận xét